Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2012

Ba bài học từ ông Nguyễn Bá Thanh

Nhiều năm qua trên báo chí, ông Nguyễn Bá Thanh - Bí thư của Đà Nẵng - là nhân vật có sức thu hút người đọc cả nước. Nhiều người gọi là “Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh”.

Mấy ngày qua, nhiều thành phố và các tỉnh họp HĐND, nhưng cuộc họp của Đà Nẵng có nhiều tin tức  nổi bật nhất. Các đại biểu của TP.Đà Nẵng đi họp đầy đủ, nghiêm túc, chất vấn và trả lời chất vấn cặn kẽ. Đặc biệt là vai trò điều hành của vị Chủ tịch HĐND TP Nguyễn Bá Thanh quá xuất sắc.
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh. Ảnh: Internet
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh. Ảnh: Internet
Hiện tượng Nguyễn Bá Thanh nói lên điều gì? Vì sao ông được dư luận cả nước đặc biệt hoan nghênh?
Một là ông thể hiện rõ  một cán bộ chống quan liêu, luôn luôn đi sát cuộc sống, nhận rõ sự thật, nói đúng sự thật. Ông chưa bao giờ tỏ ra là người giỏi lý luận. Sức thuyết phục lớn nhất của ông không phải là lý luận mà là sự thật. Ông hỏi ông giám đốc Sở TNMT: “Anh có biết trong nội thành còn có khu dân cư nào không có thùng đựng rác và họ đã xử lý rác như thế nào?”.
Ông giám đốc lúng túng mãi không đáp được. Ông Thanh nói: “Sau cuộc họp này  anh nên chịu khó đến khu dân cư Mân Thái (huyện Sơn Trà) để biết về tình trạng này và mau chóng giải quyết cho bà con”.
Khi ông giám đốc Sở GDĐT viện dẫn Thông tư 17 của Bộ GDĐT  để trả lời khó khăn trong việc xử lý dạy thêm, ông Thanh nói “Anh không phải bộ trưởng. Vấn đề của anh là trả lời câu hỏi của Đà Nẵng. Thành phố có hay không có chuyện các giáo viên tiểu học lên lớp dạy chính khóa, nhưng không chịu truyền đạt hết kiến thức cho các cháu mà để dành cho dạy thêm”.
Hai là ông khuyến khích sự công khai minh bạch trong  mọi việc không sợ vì thế mà mất uy tín của mình cũng như của cấp ủy, ủy ban. Qua chất vấn về tình trạng mãi lộ của CSGT chưa ngăn chặn được, ông đề nghị lắp đặt camera giám sát các mối đường để loại bỏ ngay CSGT nào chặn xe giữa đường.
Về tình trạng các ngân hàng làm khó DN đòi lãi suất trên 15%, ông yêu cầu ông GĐ ngân hàng TP.Đà Nẵng ngay buổi chiều phiên họp công bố 10 ngân hàng còn thu lãi suất trên 15%.
Về tình trạng không ngăn chặn nổi tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, ông kết luận: “Công khai tên các chủ tịch phường còn để lấn chiếm lòng lề đường, lần đầu kỷ luật cảnh cáo, nếu để tái phạm sẽ bị cách chức ngay”.
Ba là tôn trọng luật pháp, đồng thời đòi hỏi luật pháp phải đi sát cuộc sống đáp ứng đúng yêu cầu của cuộc sống, phục vụ lợi ích lâu dài của số đông người dân. Lâu nay Đà Nẵng có ý kiến khác về quy định nhập cư, theo quan điểm của ông Thanh và được HĐND TP.Đà Nẵng đồng tình thì phải giải quyết việc nhập cư sát thực tế. Chính sách đặt ra không phải để nói cho êm tai mà phải  thực hiện được, đi dần từ thấp lên cao không vấp váp.

Trong việc ngăn chặn tình trạng dạy thêm ở cấp tiểu học, ông Thanh đề nghị nếu thông tư của Bộ GDĐT  không đủ  thì HĐND TP.Đà Nẵng nên có quyết định của mình bổ sung những chỗ còn kẽ hở.
Ông còn đòi hỏi chính quyền phải bình đẳng với DN và người dân, khi kết luận vụ thành phố không giao đất cho Công ty Khải Hoàn Nguyên, ông nói: “Nếu tháng 12 mà chính quyền Đà Nẵng không giao đất thì CT Khải Hoàn Nguyên nên kiện ra tòa”. Làm sao để những bài học từ ông Nguyễn Bá Thanh có thể nhân ra cả nước? Đó là mong mỏi của nhân dân đối với những người lãnh đạo.
Theo Tống Văn Công

Chủ Nhật, 1 tháng 7, 2012

Lắm đầy tớ chỉ khổ ông chủ

Xã có việc của xã, huyện có việc của huyện. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước, chính quyền xã làm ít việc thôi, còn lại xã hội tự làm. Khi ấy, đương nhiên số lượng cán bộ xã mà dân phải nuôi sẽ giảm.

'Nhiều như châu chấu'

Nếu cách đây 30 năm, ai đó nói rằng đến 2012, một xã ở Thanh Hóa có 500 cán bộ thì chắc không mấy ai tin. Nhưng nếu giờ đây ai đó lại bảo đến năm 2030, số cán bộ xã đó tiếp tục gia tăng thì sẽ có nhiều người tin. Niềm tin dựa trên một thực tế là cả hệ thống hành chính Việt Nam người ngày càng nhiều hơn, năm sau nhiều hơn năm trước. Người nhà nước ngồi ở bộ máy trung ương, bộ máy địa phương nhiều nhưng vẫn thiếu, thiếu mà lại vẫn thừa, đơn giản vì thiếu người giỏi, thừa người kém. Hiện tượng 500 cán bộ xã của Thanh Hóa không phải là cá biệt, mà là điều phổ biến trong chính quyền cấp xã cả nước ta.
Lại nhớ hiện tượng Lý Xương Bình của Trung Quốc. Từ 1983 đến 2000, Lý Xương Bình bốn lần giữ chức vụ bí thư đảng ủy ở 4 xã khác nhau. Là người am hiểu nông thôn, sát thực tế, thông cảm nỗi thống khổ của người nông dân, ông đã viết thư trực tiếp cho Thủ tướng Trung Quốc lúc bấy giờ là Chu Dung Cơ để báo cáo những nhận định chủ yếu của ông:
- Nông thôn thật nghèo,
- Nông dân thật khổ,
- Nông nghiệp thật nguy hiểm,
- Cán bộ xã nhiều như châu chấu,
- Nông dân phải đóng rất nhiều loại phí để nuôi “châu chấu”,
- Nông dân bỏ ruộng, bỏ làng quê ra thành thị, bởi càng nhận nhiều ruộng khoán, càng lỗ vì phí phải nộp cho xã/ sào canh tác vượt quá số thu được v.v...


Người dân xã nghèo Quảng Vinh, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa phải góp thóc để nuôi 500 cán bộ xã. Ảnh: NNVN

Những phát hiện của Lý Xương Bình còn rất nhiều, nhưng cái giống Việt Nam nhất chính là số lượng cán bộ xã ngày càng gia tăng, phí ngày càng nhiều và càng nhiều đầy tớ thì ông chủ càng khổ hơn, càng khó khăn hơn.
Vậy đâu là cái gốc của vấn đề?
Trong hệ thống chính trị - hành chính Việt Nam, không xã nào, huyện nào, thậm chí không một tỉnh nào dám tự quyết một xã có lắm cán bộ như vậy. Về cơ bản là do Trung ương quy định.
Trung ương quy định địa phương có 3 cấp chính quyền là tỉnh, huyện, xã. Nhưng thực chất hiện nay phải là 3, 5 hoặc 4 cấp. Dưới xã ở nông thôn có thôn. Thôn có trưởng thôn, phó trưởng thôn, thôn có chi bộ, chi bộ có bí thư, phó bí thư. Dưới phường ở đô thị có tổ dân phố, trong đó có tổ trưởng, tổ phó. Dưới tổ dân phố có cụm dân cư. Cụm dân cư có cụm trưởng, cụm phó. Tương ứng là chi bộ tổ dân phố... Tất cả các chức danh này ít nhiều phải có phụ cấp hàng tháng để hoạt động.
Kèm theo là cơ cấu tổ chức và cán bộ của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội nhu Mặt trận, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... Đã là quy định của Trung ương thì phải nghiêm chỉnh chấp hành, sau đó mới là sáng tạo thêm ít nhiều căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của từng địa phương. Điều này cũng giống như Trung Quốc. Những năm 80 của thế kỷ 20, các xã ở Trung Quốc thành lập thêm cấp khu quản lý là cấp trung gian giữa thôn và xã. Thêm cấp khu là thêm cán bộ. Việt Nam ta thêm tổ dân phố, thôn là thêm cán bộ.
Vậy đâu là nguyên nhân của “cái gốc” này? Sơ bộ có thể thấy:
1. Nhận thức về vai trò của nhà nước nói chung, về vai trò của xã nói riêng về cơ bản không có gì thay đổi lớn. Nhà nước vẫn ôm đồm, làm quá nhiều việc không phải đích thực là việc của mình cần làm trong giai đoạn hiện nay. Tại nhiều diễn đàn, hội nghị vẫn thấy nói hoài nhận định không còn phù hợp nữa, đó là: xã là nơi thực hiện mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của cấp trên, của nhà nước. Mới nghe tưởng đúng, nghĩ kỹ hóa không phải. Nếu đúng thì 500 cán bộ xã vẫn là quá ít cho việc xã phải thực hiện tất cả mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước, mà nói vậy thì bộ máy huyện, bộ máy tỉnh phải giảm đến 3/5 con người để tăng cường cho xã.
Chính vì nhận thức như vậy mà nhiều bộ, ngành trung ương vẫn mong muốn và đề xuất xã phải có 1 công chức đảm nhiệm mảng lĩnh vực mà bộ, ngành đó phụ trách ở Trung ương. Theo quan niệm này phải có công chức (nếu không được thì ½ công chức) về văn hóa, thể dục thể thao, về nông nghiệp, nông thôn, về giáo dục, dân số kế hoạch hóa gia đình v.v...
Quan niệm đúng nghĩa là xã có việc của xã, huyện có việc của huyện và tỉnh có việc của tỉnh. Đúng hơn nữa là trong điều kiện của kinh tế thị trường định hướng XHCN thì nhà nước, chính quyền xã làm ít việc thôi, còn lại để xã hội, người dân tự làm.
Xa dân

2. Quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô và vi mô hiệu quả thấp. Bù lại cái hiệu quả còn thấp này là sự gia tăng biên chế, gia tăng con người trong bộ máy. Càng tắc đường ở các đô thị lớn thì càng thấy nhiều công an giao thông hơn. Trật tự, trị an, đời sống dân cư ở xã, phường, nhiều tiêu cực, hỗn loạn thì càng cần phải có thêm người nhà nước làm nhiệm vụ tuần tra, canh giữ, phòng chống tội phạm...
3. Tính quan liêu, xa dân của chính quyền xã không giảm mà ngày càng gia tăng. Phường dựa vào tổ dân phố, tổ dân phố dựa vào cụm dân cư, xã dựa vào thôn... Có gì đã có cấp dưới lo, cấp dưới phải báo cáo lên. Theo cung cách này chắc còn phải cứ 10 hộ gia đình là 1 liên gia, có trưởng và phó liên gia để quản lý cho dễ, cho chặt.
4. Các tổ chức chính trị - xã hội có xu hướng hành chính hóa mạnh giống như bộ máy hành chính và do đó cán bộ ở các tổ chức này cũng gia tăng, làm cho số lượng cán bộ, công chức xã tăng theo.
Từ 4 nguyên nhân vừa nêu đã có thể hình dung phải làm gì để giảm bớt số cán bộ xã hiện nay.
- Một là, định lại cho đúng, cho phù hợp chính quyền xã phải làm những việc gì, từ rõ việc định ra con người. Đã có một cuộc điều tra xã hội học nào về ý kiến của người dân về vai trò, trách nhiệm, về sự cần thiết của tổ dân phố, thôn ở phường, xã hay chưa? Không hỏi thì từng người chúng ta vốn đang là cư dân ở thôn, ở tổ dân phố đều thấy các tổ chức này đã và đang làm gì theo đúng nghĩa là việc công? Đã có việc, việc đích đáng phải làm thì phải có cán bộ, phải có công chức để lo, hết sức tránh theo kiểu chính quyền xã có trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, nên phải có công chức về giáo dục. Trường mầm non công lập, trường phổ thông cơ sở xã có chịu trách nhiệm xây dựng, xã có trả lương cho đội ngũ giáo viên hay không? Hay đây là việc của huyện? Tương tự như vậy ở các lĩnh vực khác.
- Hai là, đã xác định đúng việc, đúng người trong bộ máy thì phải trả lương tương xứng để cán bộ, công chức xã làm việc. Quên yếu tố này thì quản lý nhà nước ở xã sẽ lại thấp và bù lại phải tăng thêm người.
- Ba là, phát huy tính sáng tạo của dân, của xã hội theo phương châm nhà nước làm ít việc thôi, còn lại để xã hội, người dân tự lo. Khi đó, đương nhiên số lượng "châu chấu" sẽ giảm.

Đinh Duy Hòa (Vụ trưởng Vụ CCHC, Bộ Nội vụ)


Theo Vietnamnet

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Phí lưu hành xe - 'râu ông giàu cắm cằm bà nghèo?'

Đem chính sách của quốc gia đã phát triển vào một đất nước mà đường sá chật hẹp, nay đào mai bới, xe buýt ví như hung thần thì liệu có thể thành công.

Đọc sách ghét đám cường hào ác bá, chèn ép và bóc lột dân đen với đủ các loại thuế nhằm vơ vét của cải trong dân chúng với mục đích thu lợi riêng. Hay như một số vị vua ăn chơi sa đọa nào đấy vì quốc khố bị thâm hụt nên ra nhiều sắc lệnh để thu thuế của dân chúng dù dân đã khổ đủ đường. Những khoản thuế đó đã lưu truyền thành ca dao tục ngữ. Đó là chuyện cả trăm năm trước, chuyện ngày xa xưa, ngày của phong kiến, thời kỳ tăm tối.
Mấy ngày đầu 2012, đọc báo thấy Bộ trưởng giao thông đề xuất thu phí lưu hành xe cá nhân (bao gồm ôtô và xe máy với số tiền thu được trong năm thuộc loại khủng nhất từ trước đến giờ với mục đích chống kẹt xe và hạn chế xe cá nhân) mà cảm thấy thật buồn. Giải pháp "đánh vào ví tiền" không mới, mà cũng chẳng hay. Ở tầm vĩ mô, cần nghĩ rộng, cân nhắc tất cả những yếu tố ảnh hưởng, và tác động về mặt xã hội, kinh tế- chính trị nữa.

Bất cập trong giao thông Việt Nam

Diện tích dành cho đường sá quá ít so với số lượng phương tiện đã, đang và sẽ được đăng ký. Chất lượng công trình xuống cấp khỏi phải nói, nay đào mai bới, ít cầu vượt, vô số kẻ cắt nát luồng giao thông đang di chuyển ở ngã ba, ngã tư thì làm gì không tắc, không kẹt.
Người dân chen lấn, xô đẩy để được lên xe buýt.
Người dân chen lấn, xô đẩy để được lên xe buýt.
Xe buýt nhà mình thì được dân “ưu ái” gọi là hung thần của đường phố, cực chẳng đã dân mới leo lên loại xe này. Khi phương tiện công cộng không thể đáp ứng được về số lượng lẫn chất lượng thì người dân phải tự trang bị phương tiện cá nhân để đi làm.
Vì thế hợp thức hóa việc thu phí lưu hành bằng cách lấy các nước phát triển như Anh, Mỹ, Thụy Điển và Singapore ra để so sánh và kết luận “họ làm được thì ta cũng làm được vì hồi xưa cha ông ta có gì đâu vẫn đánh Pháp, Nhật, Mỹ tơi bời mà”. Khi đặt lên bàn cân rõ ràng thấy ngay sự khập khiễng, đem “Tây” ra so sánh với “Ta” chẳng khác nào mang khu nhà nhà ổ chuột so với Phú Mỹ Hưng.

Trong quan hệ giữa nhà nước và công dân thì nhà nước có quyền thu các khoảng đóng góp như phí, thuế từ nhân dân, nhưng cũng phải tạo ra cơ sở hạ tầng (trong đó có đường giao thông, phương tiện giao thông công cộng) tương đương với các khoảng mà người dân đóng góp.
Chúng ta không thể máy móc "chép bài" để có "điểm cao" giống bạn. Trước hết cần hiểu bài, biết vì sao bạn giải bài theo cách đó. Ở Việt Nam, việc áp dụng biện pháp "đánh vào ví tiền" chỉ khả thi nếu người dân có đủ điều kiện, và dễ dàng nhận thấy việc sử dụng phương tiện cá nhân sẽ tốn kém hơn nhiều so với những ưu việt mà phương tiện công cộng mang lại.

Muốn hạn chế xe cá nhân dễ hay khó?

Chỉ đơn thuần áp dụng thu phí, đánh vào chủ phương tiện, mà không có giải pháp đi lại cho người dân thì kết quả có thể làm tăng thu ngân sách nhưng mục đích chính là điều tiết lưu thông trên đường lại không thực hiện được. Thực tế, trong buổi chất vấn trước quốc hội, chính ông Bộ trưởng cũng không dám hứa sẽ làm được.
“Cấm” thẳng băng như thế này thì lợi ích của một số nhóm người sẽ bị ảnh hưởng? Mà cho tiếp tục đăng ký mới với cách quản lý và quy hoạch “hồn nhiên” như hiện nay thì kẹt xe là điều hiển nhiên! Chẳng cần học đâu xa, cứ học người Thái Lan hay Malaysia, những quốc gia tương đồng với chúng ta, xem họ đã làm như thế nào, rồi từ đó chọn giải pháp phù hợp.
Trước tiên nhà quản lý cần bổ sung, nâng cấp hệ thống giao thông công cộng để chúng thực sự thuận tiện cho người dân thì họ sẵn sàng sử dụng mà chẳng cần đóng thêm bất cứ loại phí nào.
Xin đừng để người dân phải gánh cái sai thêm cái sai vì quy hoạch, quản lý yếu kém. Mong muốn của Bác về đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” tuy dễ mà khó với cách làm như hiện nay của các “quan” nhà ta.
Ngô Vĩnh Yên - Nguyễn Thanh Tuân

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2011

Thành-cát-tư Hãn và đế quốc Mông Cổ

1. Lược sử xứ Mạc Bắc

Những cổ thư của Trung Hoa ít khi nhắc đến địa danh Mạc Bắc. Xứ Mạc Bắc là miền đất nằm ở phía bắc sa mạc. Sa mạc nói đến ở đây là sa mạc Qua Bích (Gobi), theo nghĩa Mông Cổ là “nơi trống rỗng”. Bởi vậy, định được địa giới của xứ sở bát ngát này không phải là dễ. Đại khái thì xứ Mạc Bắc phía đông sát tới biển Thái Bình bao la, phía tây tới sông Ob hoặc sông Irtych, phía bắc tiếp giáp với miền băng giá quanh năm tuyết phủ, mênh mông vô tận và vô chủ, ngày nay gọi là Tây Bá Lợi Á hoặc Xi Bia (Sibérie), phía nam là sa mạc Qua Bích khô cằn, nóng lạnh thất thường, với khoảng chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm rất cao.

Xứ này có nhiều thảo nguyên kế tiếp nhau, rất thuận lợi cho việc di chuyển trên lưng ngựa, vì vậy, người dân xứ này, nam cũng như nữ, cưỡi ngựa giỏi vào bậc nhất nhân loại. Họ là dân du mục, nay đây mai đó, sinh sống bằng nghề chăn nuôi gia súc như bò, cừu, lạc đà, ngựa, nơi nào có cỏ cho gia súc ăn thì họ tới, nơi nào hết cỏ thì họ bỏ đi. Thời xưa, họ nuôi rất nhiều ngựa, bán cho người Tàu được nhiều tiền. Họ quen uống sữa tươi và máu tươi gia súc, ăn thịt, rất ít ăn tinh bột và rau quả.

Cư dân xứ Mạc Bắc có thể tạm chia làm ba tộc: tộc Mãn Châu (race toungouse, mandchoue) ở miền đông, tộc Mông Cổ (race mongole) ở miền trung và tộc Đột Quyết còn gọi là Thổ (race turque) ở miền tây. Một thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời tiền chiến là Xuân Diệu đã ca ngợi thân mình óng ả của con gái Mạc Bắc bằng câu thơ “Ta yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng”. Xưa kia, họ chưa có quốc gia. Họ tổ chức thành những bộ lạc mà những ông tù trưởng có rất nhiều quyền, kể cả quyền sinh sát. Họ giành giật nhau những cánh đồng cỏ, cho nên chiến tranh xảy ra liên miên trên xứ sở này. Họ sống xen kẽ nhau, gần như lẫn lộn với nhau, nhất là người Mông Cổ và người Đột Quyết, cho nên cũng rất khó phân biệt. Ngôn ngữ của người Mông Cổ và ngôn ngữ của người Đột Quyết lại cũng rất gần nhau nên càng khó phân biệt. Người Mông Cổ không có chữ viết, phải mượn chữ viết của người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), một bộ lạc tộc Đột Quyết, để ghi chép sổ sách. Bởi vậy, có nhiều người đã ghép hai tộc Thổ và Mông Cổ làm một và gọi là tộc Thổ-Mông (race turco-mongole).
Ngay từ thời cổ đại, người Tàu đã có thói cao ngạo, tự cho mình là văn minh nhất, là cái rốn vũ trụ, là ở trung tâm (Trung), là đẹp nhất (Hoa), và coi những dị tộc chung quanh đều là rợ (Tứ Di: Bắc Địch, Nam Man, Đông Di, Tây Nhung). Họ gọi chung những ngoại tộc phương bắc này là những rợ Bắc Địch, sau gọi chung là Hung Nô, là Thát Đát, và người châu Âu phiên âm là Huns, là Tartares. Họ cũng còn dùng danh từ riêng “Hồ” để gọi những tộc người này. Danh từ riêng ấy được người Tàu dùng ngay từ thời cổ đại trong một chủ trương hết sức hiểm độc: “Dĩ Di diệt Di, dĩ Di diệt Hồ” (Lấy người Di diệt người Di, lấy người Di diệt người Hồ).

Vào thời cổ đại, địa bàn của người Mông Cổ, nằm ở quãng giữa xứ Mạc Bắc, rộng lớn hơn bây giờ, còn bao gồm cả vùng trung lưu sông Hắc Long (Amour) ở phía đông, vùng núi A Nhĩ Thái (Altai) ở phía tây, toàn bộ sa mạc Qua Bích ở phía nam, còn phía bắc thì tiếp giáp với miền băng tuyết hoang vu, hồ Bối Gia Nhĩ (Baikal) nằm ở quãng giữa xứ. Vào năm 209 trước Công Nguyên, xứ Mông Cổ có tên là Khunnu, dưới quyền cai trị của Modun Shanyu (vua Modun), địch thủ hùng cường nhất của người Tàu. Những nước của người Tàu ở mạn ấy sợ người “Hồ” đánh phá, phải xây thành cao để ngăn chặn. (Về sau, khi thống nhất được nước Trung Hoa năm 221 trước Công Nguyên, Tần Thuỷ Hoàng cho nối những quãng thành cao ấy với nhau để thành ra Vạn Lý Trường Thành. Rồi sau nữa, khoảng từ thế kỷ thứ XIV đến thế kỷ thứ XVII, nhà Minh tu bổ thêm). Từ thế kỷ thứ II trước Công Nguyên đến thế kỷ thứ I trước Công Nguyên, người Đột Quyết nổi trội hơn cả ở xứ Mạc Bắc. Cũng khoảng thời gian này, vua Hán Vũ Đế (140-86), một chuyên viên đi thu gom đất đai, chiếm miền đất nằm ở phía nam sa mạc Qua Bích của người Khun mà lập ra quận Sóc Phương.

Từ thế kỷ thứ I sau Công Nguyên đến thế kỷ thứ IV, người Mãn Châu Tiên Ty (Sien Pi) kiểm soát miền đông xứ Mạc Bắc. Miền tây là đất của A Đề Lai (Attalia). Ông chúa Hung Nô này, có lẽ là người Đột Quyết, mang quân sang tận Đông Âu, chiếm đóng đồng bằng Pannonie, nay gọi là Hung Gia Lợi (Hongrie). Năm 441, A Đề Lai xâm lăng đế quốc Đông La Mã (empire byzantin), tàn phá bán đảo Ba Nhĩ Cán (péninsule des Balkans), năm 451 vượt sông Rhin đánh vào Pháp nhưng bị thua liên quân La Mã, Burgondes, Francs, Visigoths trên những cánh đồng Catalauniques (ở miền Champagne bây giờ). Năm sau, ông định đánh thành La Mã (Rome), nhưng đã bị giáo hoàng Leon le Grand thuyết phục bằng việc nộp cống phẩm. Ông chúa Hung Nô bằng lòng nhận cống phẩm và rút quân, quay về Pannonie và năm 453 chết thình lình.

Vào hai thế kỷ thứ V và thứ VI, người Mông Cổ Jouan Jouan làm bá chủ xứ Mạc Bắc. Từ năm 552 đến năm 920, người Đột Quyết Yết (Tsie) chiếm ưu thế ở miền tây. Vào hai thế kỷ thứ VII và thứ VIII, đất Mông Cổ là thuộc địa của nhà Đường nước Tàu. Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XII, người Mãn Châu Khiết Đan (Khitan) lãnh đạo, lập ra nước Liêu, kế tới là người Mãn Châu Nữ Chân (Jurchen) đứng đầu, lập ra nước Kim.
Năm 1206, Thiết Mộc Chân (Temujin) thống nhất được các bộ lạc Mông Cổ, rồi gần hết các bộ lạc ở Mạc Bắc. Ông, rồi các con, các cháu mang quân đi đánh phá Đông-Bắc-Á, Trung-Á, Tây-Nam-Á, Đông-Âu, rồi chiếm toàn bộ nước Trung Hoa, dựng nên một đế quốc rộng lớn từ trước chưa từng có. Đế quốc đó được chia làm bốn nước: một hãn quốc (nước nhỏ) ở Trung Á, một hãn quốc ở Tây-Nam-Á, một hãn quốc ở Đông-Âu và một đại hãn quốc (nước lớn) ở Đông-Bắc-Á. Người Mông Cổ thống trị không đông, bị loãng trong những đám dân bản xứ bị trị. Rồi khi những dân bị trị giành được độc lập thì người Mông Cổ bị tan biến dễ dàng vào đám người bản địa, đến nay hầu như không còn để lại vết tích nào đáng kể. Ngày nay, chỉ ở chính nước Mông Cổ, nghĩa là ở xứ Ngoại Mông, người ta mới có thể gặp những người Mông Cổ thuần chủng.

Vào thế kỷ thứ XV, nhà Minh bên Tàu nhiều lần mang quân lên xâm lăng xứ Mông Cổ. Từ năm 1583 đến năm 1757, xứ Mông Cổ phân hoá bị rơi dần vào quỹ đạo Tàu. Những nông dân Tàu lấn chiếm dần đất đai miền đông-nam Mông Cổ và năm 1636, triều đại Mãn Thanh chính thức sáp nhập miền này vào bản đồ nước Tàu với tên là Nội Mông. Đến năm 1691, nhà Thanh lại khuyến khích nông dân Tàu đến lập nghiệp ở miên tây-bắc mà triều đại này gọi là Ngoại Mông. Nhưng người Nga cũng đến ở miền tây-bắc này khá đông và ảnh hưởng của họ ở đó khá đậm. Ngày cách mạng Tân Hợi ở Tàu (1-12-1911) thành công, triều đại Mãn Thanh bị lật đổ, xứ Ngoại Mông tuyên bố độc lập. Năm 1917, cách mạng vô sản Nga bùng nổ. Năm 1919, nội chiến giữa Nga Trắng Bảo Hoàng và Nga Đỏ Bôn-Xê-Vít tràn vào xứ Ngoại Mông, đến năm 1921 mới chấm dứt. Nga Đỏ toàn thắng, lập Liên Bang Xô Viết (Liên Xô).

Tháng Bảy năm ấy, Soukhé Bator, được Liên Xô giúp đỡ, thành lập chính phủ cách mệnh, rồi năm 1924, tuyên bố sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ, do Đảng Cộng sản Mông Cổ lãnh đạo, thủ đô đặt ở Ulaanbaatar (Oulan-Bator). Nước này có diện tích là 1.565.000 cây số vuông (nước Việt Nam 334.000 csv), dân số là 1.900.000 người (mật độ là 1,2/csv). Năm 1961, Mông Cổ được gia nhập Liên hiệp quốc và đến năm 1987 được hơn một trăm quốc gia công nhận, kể cả Hoa Kỳ. Năm 1990, Đảng Cộng sản Mông Cổ trao quyền lại cho chính phủ. Tháng Hai năm 1992, Hiến Pháp mới được ban hành, giải tán nước Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ, lập nền Cộng hoà Mông Cổ, nhưng vẫn do Đảng Cách mệnh Nhân dân Mông Cổ (MPRP, tên mới của Đảng Cộng sản Mông Cổ) cai trị. Trong cuộc bầu cử năm 1996, Đảng Dân chủ Mông Cổ (DP) thắng thế. Nhưng trong cuộc bầu cử năm 2000, đảng MPRP lấy lại quyền. Cuộc bầu cử năm 2004 đưa đến liên minh MPRP và MDC (Motherland Democratic Coalition = Liên minh Tổ quốc Dân chủ), bầu Natsagiyn Baggabandi làm tổng thống. Người Mông Cổ bước dần vào thể chế dân chủ.

Còn khu Nội Mông thì từ năm 1949 trở thành khu “tự trị” trong nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, thủ phủ là Houhehot. Ở nơi này, người Mông Cổ là thiểu số trên chính quê hương mình. Ngày nay, người Mông Cổ ở đấy sống trong cảnh cơ hàn, tương lai mù mịt, luyến tiếc, đau buồn với những kỷ niệm huy hoàng, vẻ vang thời oanh liệt.

2. Tình thế nước Trung Hoa ở thế kỷ XII

Năm 960, nhà Tống thống nhất Trung Nguyên. Nhưng chẳng được bao lâu, những rợ chung quanh mạnh lên, áp chế cả thiên tử. Thuở ấy, các nước rợ mạnh đáng kể là: Đại Hạ, Liêu (có nghĩa là Sắt), Kim (có nghĩa là Vàng) và Tây Liêu.

Ở thế kỷ thứ X, một tiểu quốc của người Tây Nhung, chính xác là của người Poba thuộc tộc Tạng ở miền đông-bắc xứ Tây Tạng, cường thịnh lên, lấy quốc hiệu là Tây Hạ. Năm 982, Hạ quốc công Lý Kỳ Thiên mở mang bờ cõi đến Cam Túc, Ninh Hạ, Thiểm Tây bây giờ, đổi quốc hiệu là Đại Hạ, đóng đô ở Hạ Châu tức là thành Ngân Xuyên bây giờ (thủ phủ của khu “tự trị” Ninh Hạ ngày nay). Nước Đại Hạ nằm ở phía chính nam khu vực của người Mông Cổ. Nước này có khoảng năm triệu dân, sản xuất vải, lụa rất đẹp. Vua Đại Hạ có quân đội đóng tại những ốc đảo, nơi có cây xanh, có nước ngọt giữa sa mạc mênh mông khô cằn trên Con Đường Tơ Lụa, đánh thuế các đoàn khách thương. Đó là một nguồn lợi quan trọng của nước này.

Thời đó, người Khiết Đan thuộc tộc Mãn thành lập ở phía đông-bắc Trung Nguyên của nhà Tống một quốc gia rộng lớn gọi là Liêu. Đại Hạ liên kết với Liêu cùng tấn công Trung Nguyên. Nhà Tống yếu thế, hàng năm phải nộp cống bằng vàng bạc cho cả hai nước để cầu hoà. Năm 1115, trong nội bộ nước Liêu, nhóm bộ lạc Nữ Chân tách ra thành lập nước Kim, lúc đầu kinh đô đặt ở Trung Đô (Bắc Kinh bây giờ), sau thiên về Khai Phong. Năm 1124, Tống và Kim hợp tác diệt Liêu, nhưng sau đó vua Tống Hy Tông lại phải nộp cống cho Kim. Và Đại Hạ cũng mất đồng minh luôn.
Năm 1126, người Kim diệt nhà Tống ở Hoa Bắc. Người Kim đi chinh phục các xứ chung quanh và nước Kim trở thành một nước rất lớn, bao gồm toàn bộ Mãn Châu và Triều Tiên, gần hết Hoa Bắc bây giờ. Nước Kim nằm ở phía đông-nam khu vực của người Mông Cổ. Thời bấy giờ mà nước này đã có tới 20 triệu dân, 600 ngàn quân, phần lớn đóng ở phía nam, nơi giáp với nước Nam Tống. Nước này của người Tàu, do con cháu nhà Tống, sau khi thua người Kim, chạy xuống phương nam lập ra năm 1127, kinh đô là thành Hàng Châu.

Phía tây khu vực của người Mông Cổ là nước Tây Liêu, địa bàn là khu Tân Cương của Trung Hoa và nước Kazakhstan bây giờ, kinh đô là Hổ Tư Oát Nhĩ Đoá (Husiwoerduo). Cư dân ở đây là người Duy Ngô Nhĩ, một ngành của giống Đột Quyết, theo đạo Hồi.

3. Thành-cát-tư Hãn gây dựng binh lực Mông Cổ


Khoảng năm 1165, bên bờ sông Onongol, một chi lưu của sông Hắc Long Giang, thuộc xứ sở của người Mông Cổ, vợ của tù trưởng bộ lạc Khalkha, một bộ lạc nhỏ, sinh ra một bé trai đặt tên là Temujin, phiên âm ra tiếng Tàu rồi đọc theo âm Hán-Việt là Thiết Mộc Chân. Đứa bé này tính nết hung tợn, nhưng có nhiều mưu lược và tài lãnh đạo. Người cha chiếm đoạt một bảo vật nào đó, bị chủ nhân của bảo vật mưu hại bằng thuốc độc. Mồ côi cha từ thuở lên chín, lúc thiếu thời, Thiết Mộc Chân cùng em ruột săn bẫy thỏ, đánh bắt cá để sinh nhai, mẹ hái rau, hái quả nuôi gia đình. Lúc trưởng thành, Thiết Mộc Chân đứng lên ra sức mưu đồ thống nhất các bộ lạc sinh sống rời rạc. Lúc bấy giờ, dân Mông Cổ có khoảng ba chục bộ lạc. Năm 1206, Thiết Mộc Chân được các tù trưởng công nhận là chúa, người Mông Cổ tôn là Genghis Khan, tức là Thành-cát-tư Hãn. Từ ngữ “Khan” của người Mông Cổ có nghĩa là vua, là chúa. Người Tàu đọc trại ra, rồi người Việt đọc theo âm Hán-Việt là “Hãn”. Trong vòng ba năm, từ năm 1206 đến năm 1209, Thành-cát-tư Hãn không những đã thống nhất được người Mông Cổ, mà còn thống nhất được hầu hết các bộ lạc sinh sống ở miền Mạc Bắc. Và cũng trong thời gian này, ông đã thành lập được đội quân Mạc Bắc hùng mạnh mà nòng cốt là người Mông Cổ.

Quân Mông Cổ không đông, không lúc nào trên 110 ngàn người. Hầu như họ đánh đâu thắng đấy, lập nên một đế quốc rộng lớn vào bậc nhất nhân loại, có chăng chỉ thua đế quốc Anh Cát Lợi ở thế kỷ thứ XIX. Sở dĩ họ lập được kỳ tích này là nhờ vào những chiến thuật, chiến lược và những đặc tính văn hoá sau đây:

Quân của họ chủ yếu là kỵ binh. Họ trang bị đầy đủ nhưng nhẹ nhàng nên dễ xoay trở. Đầu họ đội mũ sắt. Thân mặc áo giáp bằng da ngựa ngâm nước tiểu ngựa thành ra rất cứng, tên bắn không thủng, dao chém không rách, nhẹ hơn giáp sắt và giáp lưới sắt của châu Âu. Tay trái cầm mộc nhỏ. Tay phải cầm giáo để đâm hoặc kích để vừa đâm vừa móc. Hông đeo cung đựng trong một cái túi. Lưng đeo một hai bị tên. Chân đi ủng có ghép những mảnh sắt.

Họ có tài phi ngựa. Ngựa Mông Cổ tuy nhỏ nhưng rất khoẻ, nhanh và dai sức. Yên ngựa có gắn thêm hai bàn đạp (étriers) tròn như cái đĩa mà thời ấy chưa có dân tộc nào khác biết sử dụng. Ngồi trên mình ngựa mà hai chân đặt lên hai bàn đạp thì thế ngồi rất vững vàng, tạo ra sự nhanh nhẹn và sức mạnh khi giao chiến.

Họ bắn tên bằng cung rất tài, cả nam lẫn nữ. Họ vừa phi ngựa, vừa giương cung bắn tên về phía trước hoặc ngoái lại bắn về phía sau rất trúng, rất nhanh, có thể bắn sáu mũi trong một phút. Tên có mấy loại, đều có mũi bằng sắt. Có loại mũi nhọn như cái dùi, có loại mũi bẹt sắc như dao, có loại mũi tù được đục hai ba lỗ thủng nên khi phóng ra thì gây tiếng hú rợn người để uy hiếp tinh thần quân địch. Cung làm bằng gỗ gắn thêm những mảnh xương súc vật. Giây cung làm bằng gân bò, gân ngựa.

Quân chia ra thành đội, mỗi đội 10 người. Mười đội là một đoàn 100 người. Đại đơn vị là sư, có 10.000 người. Lúc lập các đơn vị, người các bộ lạc trộn lẫn với nhau để tránh sự thông đồng tạo ra phản loạn hoặc bất tuân thượng lệnh. Kỷ luật quân đội là kỷ luật thép, cưỡng lệnh cấp trên là xử tử liền tại chỗ.

Chiến sĩ Mông Cổ bản tính hiếu chiến và rất ác, không biết động lòng thương xót là gì. Họ tàn sát hầu hết kẻ bại trận, không mấy khi tha mạng, chỉ trừ những thợ khéo bắt về để xây những kiến trúc hoặc bắt nô lệ. Phụ nữ bên bại trận thì bắt đi làm bia đỡ đạn. Tiếng hung bạo đã được loan truyền sang tận châu Âu đến nỗi người Âu đã phải thốt ra: “Cỏ không mọc được dưới vó ngựa Hung Nô”.

Khi chuyển quân, phụ nữ lùa gia súc đi cùng, hai bên có quân lính đi bảo vệ. Đoàn gia súc cũng là lương thực thực phẩm: sữa tươi và máu tươi để uống, thịt để ăn. Khi kết liễu một trận đánh, phụ nữ đi thu dọn chiến trường, thu chiến lợi phẩm, giết những thương binh địch.

Họ chỉ có hai chiến thuật đơn giản nhưng hiệu nghiệm. Chiến thuật thứ nhất là bất chợt họ phi ngựa tới, chém giết, đốt phá, bên địch chưa kịp đánh trả thì họ đã phi ngựa đi, dù muốn đuổi theo cũng không kịp nữa; rồi họ quay lại quyết định chiến trường. Chiến thuật thứ hai là giả vờ thua chạy rồi bất thần quay lại phản công. Cả hai chiến thuật này đều làm cho hàng ngũ địch mất tinh thần, rối loạn. Nhiều tù trưởng các bộ lạc ở hoang mạc, ở thảo nguyên đã bị thua bởi chiến thuật thứ nhất, và nhiều tướng lãnh Đông Âu đã bị thua bởi chiến thuật thứ hai.

Sau 18 năm chinh chiến, người Mông Cổ đã học được nhiều điều ở những dân bại trận: cách chế tạo cần bắn đá (của người Tây Á), dùng thuốc súng làm vỡ các tường thành (của người Tàu) nhưng chưa biết dùng súng bắn đạn, dùng những ống đồng để ném các chất cháy sang thuyền địch (của người Cận Đông). Vì vậy, binh lực của họ còn mạnh hơn trước. Về việc sử dụng cần bắn đá, nhiều khi họ bắn vào thành địch cả đạn lửa, xác súc vật hoặc xác người đã rữa thối để gây những bệnh dịch. 

4. Thành-cát-tư Hãn và cuộc viễn chinh

Năm 1209, Thành-cát-tư Hãn bắt đầu xuất quân. Những cuộc hành quân của ông có thể được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất 6 năm (1209-1215) đánh Đông-Bắc-Á, giai đoạn thứ nhì 7 năm (1218-1225) đánh Trung-Á, Tây-Nam-Á và Đông-Âu, giai đoạn thứ ba 2 năm (1226-1227) đánh tiếp Đông-Bắc-Á.

Năm 1209, Thành-cát-tư Hãn xuất quân, đánh nước Đại Hạ. Muốn đánh nước này thì quân Mông Cổ phải đi băng qua sa mạc Qua Bích. Việc này không khó đối với kỵ binh Mông Cổ. Nhưng muốn vào nước này thì phải vượt qua một cái đèo có quân Đại Hạ đóng ở đó. Thành-cát-tư Hãn không vượt qua nổi, bèn lập mưu giả vờ rút lui. Quân Đại Hạ đuổi theo. Quân Mông Cổ quay lại phản công, bắt được tướng địch. Vua Đại Hạ phải điều đình, dâng gái đẹp và châu báu, và hẹn hàng năm triều cống. Quân Mông Cổ rút lui.

Năm 1211, Thành-cát-tư Hãn dẫn 70 ngàn kỵ binh, vượt Vạn Lý Trường Thành sang đánh nước Kim. Lúc đó Trường Thành không kiên cố như sau này khi nhà Minh tu bổ lại nên vượt qua cũng không khó khăn lắm. Quân Mông Cổ đến chân thành Khai Phong nhưng không đánh thành mà lại đi ngược lên đánh kinh đô nước Kim là thành Trung Đô (Bắc Kinh bây giờ). Trung Đô kiên cố, cao tới 12 mét, đánh không nổi, quân Mông Cổ bèn cướp phá vùng phụ cận cho thoả thích. Năm 1214, Thành-cát-tư Hãn trở lại, lần này có mang theo cần ném đá có khả năng ném những tảng đá nặng 50 kí-lô để phá tường thành. Nhưng dụng cụ “tối tân” này không cần dùng tới vì nội bộ Kim lủng củng. Vua Kim xin điều đình, dâng công chúa và châu báu. Quân Mông Cổ rút lui. Triều đình Kim dời đô về Khai Phong.

Năm 1215, quân Mông Cổ lại vây Trung Đô; dân trong thành đói ăn, mở cửa thành xin hàng. Quân Mông Cổ vào thành, đốt phá, cướp bóc, giết người, hãm hiếp tàn bạo. Nước Cao Câu Ly (một quốc gia ở bắc bộ bán đảo Triều Tiên và một phần xứ Mãn Châu bây giờ) khiếp sợ, phái người sang xin triều cống, được ưng thuận.

Thành-cát-tư Hãn khinh người Tàu, khinh nông nghiệp, coi là hèn nhược, muốn giết hết nông dân, đổi ruộng thành đồng cỏ để có chỗ nuôi gia súc. Rất may lúc đó vua Mông Cổ có một người cận thần Mãn Châu tên là Gia-luật Sở-tài ngỏ lời hơn thiệt khuyên bảo. Thành-cát-tư Hãn nghe ra tai, ngưng việc chém giết. Người cố vấn này được tin dùng cho đến khi chết vào năm 1244.

Năm 1218, một đại tướng Mông Cổ tên là Jebe được lệnh của Thành-cát-tư Hãn mang 20 ngàn kỵ binh đi về hướng tây đánh nước Tây Liêu (nay là miền Tannou Touva trong Liên Bang Nga?). Nguyên lúc trước, vua nước này tên là Kuchlug đã có lần xâm phạm đất Mông Cổ, bị Thành-cát-tư Hãn đánh bại; nay củng cố binh lực, liên kết với các nước khác để phục thù. Dân Tây Liêu theo đạo Hồi mà Kuchlug lại cấm đạo này, giết một thầy giảng đạo (Iman). Khi nghe tin quân Mông Cổ sắp tới thì dân chúng vui mừng. Quân Mông Cổ thắng ngay, chặt đầu Kuchlug.
Quá về phía tây có nước Khwarzim (nay là nước Ouzbékistan), kinh đô là Samarkand, rất giàu. Thành-cát-tư Hãn muốn kết thân và giao dịch thương mại, sai một phái đoàn nhiều người gồm sứ thần và 450 nhà buôn mang nhiều đồ quý giá đến biếu vua nước ấy là Shah Muhammed. Đi đến biên giới, phái đoàn bị viên quan cai trị tên là Inalchug nghi ngờ là gián điệp, bắt giam rồi giết. Ông phái sứ thần đến đòi trừng phạt viên quan nọ. Muhammed đã không trừng phạt thuộc hạ, lại còn giết sứ thần, chém đầu mang trả Thành-cát-tư Hãn. Năm 1219, quân Mông Cổ kéo sang. Muhammed có 400 ngàn quân nhưng không trung thành lắm và dân trong nước cũng không ưa vì sưu cao thuế nặng. Mặc dầu quân ít, Thành-cát-tư Hãn vẫn chia quân làm hai đạo: một đạo đi Samarkand rồi đi Bukhara, một đạo vây thành Utrar mà tướng giữ thành lại chính là Inalchug. Quân Mông Cổ dùng cần ném đá ném vào thành đạn lửa làm bằng diêm sinh, dầu hoả và tiêu thạch (salpêtre). Inalchug giữ thành được hơn một tháng rồi tử trận. Thành bị san thành bình địa, các thợ khéo bị đưa về Mông Cổ. Samarkand và Bukhara, đều nằm trên Con Đường Tơ Lụa, mở cổng thành đón quân Mông Cổ. Thành-cát-tư Hãn vào thành ngồi uống rượu và nghe nhạc, rồi cho phép lính được tự do cướp bóc, đốt phá, hãm hiếp.

Năm 1220, đạo quân ở Utrar lại đi về hướng tây, tới thị trấn Urgenc nằm trên Con Đường Tơ Lụa, vẫn trong nước Ouzbékistan, trên bờ sông Amou-Daria, phía nam biển Aral. Ở đấy diễn ra một trận đánh rất hung bạo, người ta nói rằng có tới 100 ngàn người giữ thành bị giết. Quân Mông Cổ đào kênh, phá đê dẫn nước vào tràn ngập đống gạch vụn.
Rồi quân Mông Cổ đi về hướng nam, đánh phá thành Merv thuộc nước nay gọi là Turkménistan. Tục truyền rằng trong đống gạch vụn, một nhà tu hành đạo Hồi đếm xác chết trong 13 ngày chưa hết, ước lượng rằng có đến 1.300.000 cái thây. Thành Balk trong nước nay gọi là Afghanistan cũng chung số phận: già trẻ lớn bé đều bị bắt xếp hàng 10, hàng 100 như quân đội, rồi lính Mông Cổ cầm dao, cầm giáo giết từng loạt rất có qui củ (!). Có một chuyện ngoại lệ xảy ra ở thành Herat cũng thuộc nước nay là Afghanistan. Năm 1221, quân Mông Cổ hạ thành này, tha mạng cho nhiều người (?). Lúc đạo quân bỏ đi, chỉ để lại một ít quân giữ thành, dân địa phương đã nổi dậy giết đám quân giữ thành. Khi quân Mông Cổ trở lại, chuyện gì xảy ra, tất nhiên ai cũng biết.

Năm 1221, Thành-cát-tư Hãn sai hai đại tướng Jebe và Sudebei dẫn 20 ngàn quân tới biển Lý Hải (mer Caspienne), đi vòng sang bờ phía tây. Có hai đạo quân xứ Géorgie ra nghênh chiến, bị thua cả hai. Mùa đông năm ấy, quân Mông Cổ vượt rặng Cao Gia Sách (Caucase) lọt vào địa bàn của giống người Slaves, gặp quân Thổ Nhĩ Kỳ (thuộc giống Đột Quyết, tây tiến từ thế kỷ thứ XI). Quân Thổ thua mau, và quân Mông Cổ vào các làng cướp phá, hãm hiếp như thường lệ.

Thời ấy, người Slaves chưa thành lập được những quốc gia lớn mạnh. Họ chỉ có những lãnh địa lớn nhỏ cai quản bởi những lãnh chúa, như: Rostov, Moscou, Novgorod (nay thuộc Nga), Kiev (nay thuộc Ukraine), Chernigov, Galicie (nay thuộc Ba Lan)... Năm 1223, các ông chúa Slaves họp nhau thành lập một đoàn quân gồm 80 ngàn người. Các ông chúa là tướng mặc giáp lưới sắt nặng nề, theo sau là những toán bộ binh, ra gặp quân Mông Cổ ở bờ sông Kalka. Kỵ binh tiên phong Mông Cổ cầm cung bắn vãi tên lên đầy trời. Một số tướng Slaves dẫn quân tiến lên đánh. Quân Mông Cổ bỏ chạy rồi biến mất trong màn khói mù mịt mà quân Mông Cổ đốt phân ngựa trộn dầu hoả tạo nên. Sau đó, quân Slaves thấy sau màn khói không phải là toán kỵ binh cầm cung tên mà là toán kỵ binh cầm giáo, cầm kích đánh giết dữ dội. Quân Slaves hoảng loạn, mạnh ai nấy chạy, đại bại. Hai viên tướng Mông Cổ Jebe và Sudebei ngồi ăn uống trên một cái hòm gỗ trong đó có nhốt ba ông chúa Slaves bị bắt. Ba ông này bị ngạt thở chết.

Sau trận này, Jebe và Sudebei dẫn quân quay về hướng đông, đi về mạn sông Volga, thắng thêm hai trận nữa, rồi năm 1224 vượt núi Oural, hội quân với Thành-cát-tư Hãn, đi xuyên qua nước nay là Kazakhstan. Dọc đường, quân Mông Cổ cướp lương thực, của cải và ngựa của dân bản xứ, đánh tan bất cứ đội quân nào kháng cự lại.

Năm 1225, Thành-cát-tư Hãn lên đường về Mông Cổ. Nhưng ông không về thẳng quê mà lại tạt qua thành Hạ Châu, kinh đô của nước Đại Hạ năm 1226 để hỏi tội vua nước này. Nguyên năm 1218, trước khi đi đánh nước Khwarzim (nay là nước Ouzbékistan), ông ngỏ lời mượn quân của Đại Hạ. Vua nước này đã không cho mượn lại còn nói ngược ngạo sao đó mà ông để bụng thù. Khi ở phương tây về quê, ông quyết tiêu diệt nước này. Trong khi vây thành Hạ Châu, ông bị bệnh, qua đời năm 1227, thọ khoảng 60 tuổi. Dù vậy, nước Đại Hạ cũng bị diệt, quân Đại Hạ tan rã, bỏ trốn về Tây Tạng. Quân Mông Cổ bắt mang về nước 30 ngàn thợ khéo, định xây một kinh đô bền vững tại đất khởi nguyên.

5. Thành-cát-tư Hãn và những người kế nghiệp

Thành-cát-tư Hãn có sáu người vợ Mông Cổ và không biết bao nhiêu là vương phi người các nước khác, con cái đông vô kể. Trước khi chết, ông đã định rằng sẽ nối nghiệp mình chỉ là bốn người con trai của người vợ cả Mông Cổ tên là Borte, cưới nhau khi bà này mới 14 tuổi. Đế quốc của ông được chia ra làm bốn, ba hãn quốc ở phương tây và một đại hãn quốc ở phương đông bao gồm đất khởi nguyên Mông Cổ và vùng Đông-Bắc-Á phần cho người con thứ ba mà ông cho là tài giỏi hơn cả. Con cháu Thành-cát-tư Hãn tiếp tục mở rộng đế quốc Mông Cổ.

Ở phần dưới đây, những chữ đậm nét dùng để chỉ tên những người đã làm ĐẠI HÃN (vua lớn) hoặc Hãn (vua); những chữ số La Mã dùng để chỉ các thế hệ (I là thế hệ Thành-cát-tư Hãn, II là thế hệ các con, III là thế hệ các cháu); bốn chữ cái (A, B, C, D) dùng để chỉ số thứ tự con của Thành Cát Tư Hãn (A là con trưởng, B là con thứ hai, C là con thứ ba, D là con út); những chữ số Ả Rập (1, 2, 3, 4) dùng để chỉ số thứ tự con của từng ngành.

(I) THIẾT MỘC CHÂN (Temujin) tức THÀNH-CÁT-TƯ HÃN (Genghis Khan).
(II A) Thuật Xích (Jochi, Juji), có hai con trai là:
(III A1) Batu.
(III A2) Berke.
(II B) Sát Hợp Đài (Chagatai, Jiagatai).
(II C) OA KHOÁT ĐÀI (Ogodei, Ogotai), có con trai là:
(III C1) QUÝ DO (Guyuk).
(II D) Đà Lôi (Tolui, Tule), có bốn con trai là:
(III D1) MÔNG KHA (Mongke, Manggu).
(III D2) HỐT TẤT LIỆT (Kubilai).
(III D3) Ariq-Boke.
(III D4) Húc Liệt Ngột (Hulagu).

Khi chọn người thừa kế chức đại hãn, Thành-cát-tư Hãn rất phân vân. Đà Lôi là tướng tài nhưng quá thận trọng và đa nghi. Còn Oa Khoát Đài hơn Đà Lôi về khả năng chính trị. Khi ông băng hà, Hoàng tộc bầu cho Đà Lôi vì theo truyền thống Mông Cổ, con út thừa hưởng gia tài, hơn nữa, Đà Lôi đang nắm quyền lực và quân đội. Nhưng Đà Lôi, theo ý cha, nhường ngôi cho anh là Oa Khoát Đài.

Đà Lôi lấy Sorghaghtani-Beki sinh được Mông Kha, Hốt Tất Liệt, Ariq-Boke (không biết danh xưng Hán-Việt là gì) và Húc Liệt Ngột. Sau khi Oa Khoát Đài, rồi con là Quý Do chết, các con của Đà Lôi tranh ngôi với con của Thuật Xích. Rồi Hốt Tất Liệt và Ariq-Boke lại tranh nhau.
Theo diendankienthuc.net

Giáo dục giới tính ở Mỹ

Sáu năm trước, một bà mẹ người Hoa đem đứa con trai vừa tròn 9 tuổi của mình đến nước Mỹ định cư tại New York. Đây là một thành phố đầy rẫy màu sắc tình ái nhục dục. Chưa cần nói phố 42 khu Manhattan có cả một khu phố đèn đỏ nổi tiếng bất hảo, mà riêng chuyện đứa trẻ ngày ngày đến trường phải đi qua một loạt cửa hiệu bán đồ chơi tình dục (sextoy) đã đủ làm cho bà mẹ ấy hết sức lo lắng. Trong hoàn cảnh như vậy, cháu bé 9 tuổi kia khi lớn lên trên đất Mỹ đã nhận được sự giáo dục giới tính ra sao ? Hãy nghe chính bà mẹ kể lại.
Cấp tiểu học: Nhận thức chính mình
Một hôm con trai tôi đi học về. Như thường lệ, tôi mở vòi nước vào đầy bồn tắm để chuẩn bị tắm cho cháu. Chẳng ngờ cháu lại nói: “Mẹ ơi, từ nay trở đi không cần mẹ tắm cho con nữa đâu!” “Sao thế?” – tôi cười hỏi lại. “Giáo viên môn sinh lý bảo, vì con là nam giới nên con không được tùy tiện để cho mẹ nhìn thấy cái penis1 của mình!”
Trời ơi, thằng nhóc học được ở đâu thứ lý luận kỳ quặc như vậy nhỉ! Tôi vừa bực mình vừa buồn cười: “Vũ này, con còn bé, mẹ tắm cho con là chuyện rất bình thường thôi mà.” Nói đoạn tôi vừa vỗ về vừa định giúp cháu cởi quần lót. Ai ngờ cháu gạt tay tôi ra và hét to: “Mẹ đừng chạm vào người con, con cũng có cái riêng tư của mình chứ!”
Thấy thái độ cháu rất nghiêm chỉnh, tôi đành thôi, trong bụng thầm trách các thầy cô giáo ở trường cháu đã “bé xé ra to” cái chuyện vớ vẩn này.
Tối hôm ấy tôi lựa lời hỏi Vũ xem giáo viên môn sinh lý đã nói gì trên lớp. Câu trả lời của cháu làm tôi há hốc miệng kinh ngạc. Thì ra giáo viên đã cho học sinh cả lớp xem các tranh vẽ đàn ông đàn bà khỏa thân để chúng hiểu được sự khác biệt rõ rệt nhất về sinh lý giữa nam với nữ là ở bộ phận sinh dục. Thằng bé nhìn tôi đàng hoàng nói: “Thầy giáo nói rồi, penis của con trai và vulva2 của con gái đều thuộc vào những thứ riêng tư kín đáo của một người, không được để bất cứ ai nhìn thấy hoặc sờ vào, trừ thầy thuốc.”
Khi nói câu ấy, vẻ mặt cháu tỉnh bơ hoàn toàn không ngượng nghịu chút nào. Điều khiến tôi không ngờ tới là chẳng những cháu đã biết các kiến thức sinh lý như sự trưởng thành phát dục của cơ thể, quá trình phụ nữ mang thai và sinh đẻ, mà thằng bé chưa đầy 10 tuổi này thậm chí còn chuyển đề tài, nói về sự quý giá của sinh mệnh và tính chất quan trọng của tình bạn nam nữ. Xem ra giáo dục vỡ lòng về giới tính người Mỹ dạy cho trẻ em còn lồng ghép cả nội dung giáo dục tính người: Biết quý trọng mạng sống và yêu quý người khác giới.

Cấp trung học cơ sở: Trực diện và hướng dẫn
Một hôm cháu Vũ mang về một bản thông báo của nhà trường cho biết cuối tuần này ở trường có một buổi lên lớp về kiến thức giới và tình dục, nội dung gồm việc tránh thai và đề phòng bệnh đường sinh dục. Bản thông báo ghi rõ: Nếu phụ huynh không đồng ý cho con em mình dự buổi học này thì phải ký tên vào một giấy trả lời nhà trường, sau này nếu trẻ xảy ra các hiện tượng như phá thai, mắc bệnh AIDS... thì phụ huynh không được trách nhà trường chưa dạy các em biết việc đó. Cuối bản thông báo viết, nhà trường hoan nghênh phụ huynh tới bàng thính giờ dạy về giới tính và tình dục.
Do lâu nay đã muốn đến trường con mình học để “trinh sát” tình hình nên dĩ nhiên tôi không bỏ lỡ dịp này.
Tôi đến trường, mang theo tâm trạng cho rằng giờ học kiến thức về sex chắc hẳn sẽ có không khí nghiêm trang và gò bó, ai ngờ thực tế lại không thế. Giờ học bắt đầu, cô giáo trẻ và xinh đẹp lấy phấn viết lên bảng chữ “SEX” to đùng. Sau đó cô mỉm cười nói với toàn thể học sinh: “Bây giờ cô hỏi các em nhé, khi nhìn thấy chữ SEX này các em nghĩ tới chuyện gì nào?”
Tôi thật chẳng ngờ giáo viên lại đi hỏi lũ con nít một vấn đề vớ vẩn như thế.
Một em trai tóc xoăn phát biểu đầu tiên: “Sex khiến em nghĩ đến chuyện di tinh ạ.” Lập tức trong lớp có tiếng cười rì rầm.
Một em gái hơi có vẻ ngượng ngập nhỏ nhẹ nói: “Sex khiến em nghĩ tới chuyện mang thai ạ.” Mấy bạn khác bụm miệng cười.
Một học sinh gốc châu Á tóc đen bất ngờ thốt lên một câu: “Thưa cô, sex khiến em nghĩ đến chuyện làm tình ạ!”
Lũ trẻ bỗng nhốn nháo, rì rầm xì xào, nhiều em gái đỏ mặt.
Lúc ấy một em trai da đen thân hình cường tráng nói với giọng ồm ồm: “Sex khiến em nghĩ tới người đàn bà không mặc quần áo gì cả ạ ...” Câu nói vừa dứt, các học sinh khác cười toáng lên, có mấy em ném bút và vở về phía bạn ấy. Lớp học như nổ tung, lũ trẻ cười ha hả khoái chí lắm.
Các em học sinh tiếp tục thoải mái phát biểu. Lũ trẻ có sức tưởng tượng thật là phong phú. Cô giáo liên tiếp viết lên bảng những từ: “Làm tình, dáng điệu, phá thai, hôn, gợi dục ...” Một số từ ngữ bình thường ngay cả người lớn cũng khó nói ra miệng, thế mà lũ trẻ lại nói thoải mái, hoàn toàn không thấy có ý nghĩa xấu hổ, tục tĩu.
Sau khi cả lớp yên tĩnh trở lại, cô giáo nhìn lên tấm bảng đen đầy chữ rồi chau mày nói: “Các em phát biểu nhiều thế mà vẫn còn sót mất một từ có vô vàn mối quan hệ chằng chịt với sex ...” 
Lũ trẻ thì thầm rì rầm bàn tán với nhau, suy nghĩ, phỏng đoán. Lát sau, cô giáo lẳng lặng quay người, ấn mạnh viên phấn lên bảng, viết nắn nót từ “LOVE” !
Lớp học bỗng dưng im phăng phắc.
“Tình yêu!”, cô giáo nói với giọng chan chứa xúc cảm, “Tình yêu – đó là tình cảm thuần khiết thiêng liêng nhất, cao cả nhất giữa hai giới tính. Sex không có tình yêu thì chỉ là cái xác không hồn! Người ta có khi bàn tán om xòm về nhục cảm, khoái cảm nhưng lại bỏ quên mất một điều: Sex cần phải có tiền đề là Yêu. Trong đời sống, những hiện tượng như có thai ở tuổi vị thành niên, phá thai, mắc bệnh đường sinh dục ... thông thường là do các hành vi tình dục vô trách nhiệm gây ra ...”
Lời cô giáo nói tràn đầy sức truyền cảm. Lũ trẻ vừa nãy cười sặc sụa bây giờ đều trở nên nghiêm chỉnh, trang trọng.
Tiếp đó cô giáo nói cho các em học sinh biết, quan hệ tình dục không có gì là đê tiện hèn hạ, cũng chẳng có tính phạm tội; nó là mối quan hệ tự nhiên, đẹp đẽ; nhưng học sinh trung học nếu quá sớm bước vào đời sống tình dục thì sẽ không có lợi cho sức khỏe và việc học hành; để xảy ra mang thai ngoài ý muốn và phá thai là điều vô cùng đau khổ.
Sau cùng, cô giáo chiếu lên màn hình một đĩa CD giới thiệu các phương pháp tránh thai. Lũ trẻ đón xem với thái độ đặc biệt nghiêm chỉnh. Trông bộ dạng chăm chú của các em cứ tưởng chúng đang xem một đồ thị ba chiều trong toán học.
Sau giờ học, tôi gặp thầy giáo chủ nhiệm lớp con tôi để trao đổi ý kiến. Khi tôi hỏi cháu Vũ có chơi thân với bạn gái nào trong lớp hay không, thầy chủ nhiệm có chút ngạc nhiên: “Rất xin lỗi thưa bà, tôi chưa bao giờ hỏi học sinh những chuyện riêng tư của chúng. Con bà rất xuất sắc, nếu có em gái nào yêu nó thì cũng là chuyện rất bình thường thôi ạ.” Tôi vội giải thích là tôi lo ngại cháu yêu đương quá sớm sẽ ảnh hưởng tới việc học tập. Thầy chủ nhiệm nói liền mấy câu “No” “No”... rồi hùng hồn giảng giải: “Tình yêu sẽ làm trẻ em trở nên thông minh hơn, tự tin hơn. Trách nhiệm của phụ huynh học sinh chỉ là ở chỗ hướng dẫn cho con mình khi say sưa yêu đương phải biết cách tránh thai !”

Cấp trung học phổ thông: Thông cảm và tin nhau
Chẳng bao lâu cháu Vũ nhà tôi đã lên lớp 9. Khi thấy cháu bắt đầu mọc ria mép, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng ở chỗ đặc trưng thứ hai về giới tính của cháu phát triển lành mạnh, mới tròn 15 tuổi cháu đã cao 1,7 mét. Lo ở chỗ văn hóa tình dục của xã hội phương Tây có tác dụng chất xúc tác đối với lũ trẻ đang ở tuổi dậy thì– nghe nói ở Mỹ hằng năm có hơn 1 triệu em gái mang thai; hiện tượng quan hệ tình dục trước hôn nhân trong nam nữ thiếu niên đã trở thành vấn nạn của xã hội.
Đúng vào lúc tôi đang lo lắng về việc liệu cháu Vũ nhà tôi có thể bình yên vượt qua thời kỳ rạo rực của tuổi thanh xuân hay không thì bỗng nhiên có tin: Theo đề án của Sở Giáo dục thành phố New York, các trường trung học công sẽ phát miễn phí bao cao su cho học sinh trung học phổ thông!
Nhiều phụ huynh người gốc Hoa rất bất mãn với đề án này. Theo tôi nghĩ, cách làm ấy chẳng khác gì sự ngầm ra hiệu hoặc dung túng cho lũ trẻ ăn vụng trái cấm.
Tôi cuống cuồng đến ngay nơi con mình học, yêu cầu nhà trường đưa ra lời giải thích biện pháp bậy bạ cung cấp bao cao su cho trẻ em.
Một giáo viên tư vấn tâm lý phụ trách công tác học sinh tiếp tôi. Xem ra bà giáo này rất hiểu nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nói năng có tình có lý đâu ra đấy: “Tôi đã tiếp xúc với rất nhiều phụ huynh học sinh người gốc Hoa, nói chung họ cai quản dạy bảo con cái quá nghiêm ngặt. Việc họ khăng khăng cấm đoán tình dục là không khôn ngoan và nguy hiểm.”
Hình như phát hiện thấy tôi có chút ngạc nhiên nên bà giáo tiếp tục giải thích: “Sau khi bước sang thời kỳ dậy thì, lượng hooc-môn trong cơ thể lũ trẻ tiết ra tăng mạnh, chức năng tình dục phát triển nhanh, cộng thêm vô số tác dụng kích thích tình dục từ bên ngoài, chúng sẽ càng mạnh mẽ yêu cầu giải tỏa được hưng phấn tình dục và căng thẳng tình dục của mình; nhưng lũ trẻ lại không có điều kiện sống như người lớn, do đó nhu cầu tình dục của chúng bị ức chế, vì thế sinh ra tâm lý lo lắng bồn chồn của thời kỳ dậy thì. Xin hỏi, ai có thể bảo đảm con cái mình sẽ không vì một phút rung động nhất thời mà có hành động mất kiềm chế?”
Ngừng một lát, bà nói tiếp: “Chẳng phải người Trung Quốc các vị có câu thành ngữ phòng bệnh hơn chữa bệnh đó sao? Nhà trường cung cấp bao cao su cho các em học sinh chính là nhằm ngăn chặn hậu họa đấy, thưa bà. Bản thân bao cao su không thể làm tăng hoạt động tình dục của học sinh song lại có thể giảm bớt một cách hữu hiệu hiện tượng các em gái mang thai và sự lây lan các bệnh tình dục. Xin bà thử nói xem, chả lẽ như thế lại không tốt hay sao?”
Cuộc trao đổi ý kiến với giáo viên tư vấn tâm lý khiến tôi xúc động hồi lâu, tôi không thể không thừa nhận việc nhà trường cung cấp bao cao su thoạt xem có vẻ bậy bạ song thực ra lại tràn đầy tính người, thể hiện sự quan tâm, yêu thương của xã hội đối với lớp con trẻ.
Ít lâu sau, một lần vào ngày nghỉ cuối tuần, tôi và cháu Vũ cùng xem truyền hình. Bỗng dưng trên màn hình xuất hiện pha đặc tả cảnh hôn hít và ân ái khá lâu. Tôi bất giác chột dạ định chuyển sang kênh khác nhưng lúc ấy bộ điều khiển từ xa lại đang ở trong tay cháu. Trước cảnh hoan lạc kéo dài của đôi trai gái, tôi phát ngốt lên, đứng ngồi không yên. Liếc sang con trai thì thấy ngược lại cháu vẫn ngồi ngay ngắn, mắt không rời khỏi màn hình, chẳng hề có chút lúng túng nào sất. Nhìn bộ dạng cháu khoái chí chăm chú dán mắt vào chiếc ti-vi, tôi nghĩ bụng: “Thằng nhóc này quá chín muồi rồi đấy, xem những cảnh tình ái hot thế mà vẫn cứ điềm nhiên như không.”
“Mẹ ơi, mẹ đừng nhìn con bằng ánh mắt như thế được không? Con trai mẹ chẳng có ý nghĩ gì bậy bạ đâu ạ!” – bất ngờ thằng nhóc chọc tôi một câu.
Thấy con chủ động gợi chuyện, tôi vội nắm lấy cơ hội: “Vũ này, mẹ hỏi con nhé, con đã có bạn gái chưa đấy?” Cháu thản nhiên đáp: “Có chứ ạ, quan hệ giữa con và cô ấy còn trên cả mức bình thường nữa kia!”
Trống ngực tôi bất giác đập thình thịch. Thấy bộ dạng căng thẳng hồi hộp của tôi, nó đắc ý liếc tôi một cái rồi nói với giọng bông đùa: “Xin mẹ chớ có căng thẳng thế, con trêu mẹ tí thôi mà!”
Nói đoạn cháu đứng dậy tắt cái ti-vi rồi bất ngờ hỏi: “Mẹ ơi, mẹ xem con có sức hấp dẫn của một trang nam nhi không nào?”
Nhìn con mình đẹp trai ngời ngời, tôi cố ý chỉ cười không nói gì. Bỗng dưng cháu thốt ra một câu làm tôi vô cùng sững sờ: “Con chờ bao giờ lên đại học xong xuôi thì sẽ kiếm một cô bạn thông minh gợi cảm làm người yêu của mình. Chắc chắn cô gái ấy sẽ xuất hiện trong đời con. Vì cô ấy, bây giờ con dốc sức lao vào việc học tập, không bận tâm gì đến chuyện yêu đương.  Xin bảo đảm với mẹ sau đây hai năm nữa con nhất định sẽ thi đỗ vào một trường đại học hàng đầu của nước Mỹ!”
Bất giác tôi trợn tròn mắt, thì ra con trai mình đã chín chắn hơn mình tưởng tượng rất nhiều. Trong bối cảnh nền văn hóa sex của nước Mỹ, trải qua bài học vỡ lòng về giới tính và sự giáo dục giới tính ở tuổi dậy thì, con trai tôi bây giờ đã đủ khả năng có thái độ thản nhiên như không đối với vấn đề tình dục. Sex trong lòng con tôi là một điều tự nhiên và tươi đẹp, không có chút gì thần bí và xấu hổ. Trong xã hội phương Tây đầy rẫy những quyến rũ tình ái nhục dục, con trai tôi lĩnh hội vấn đề sex bằng một trái tim bình thường, dùng ý thức giới tính lành mạnh chín muồi để kiềm chế được mọi nỗi rạo rực sinh lý ở tuổi dậy thì.
-----------------
Ghi chú:  1. Dương vật;  2. Âm hộ
Nguyễn Hải Hoành  dịch 
Nguồn: tạp chí Khoa học và Văn hóa số 5-2009
(Trung Quốc)

Thứ Tư, 23 tháng 3, 2011

Hai chữ Thịnh - Suy

(Dân trí) - Thịnh và Suy đó là hai điều mà bất cứ các nhà lãnh đạo quốc gia nào cũng phải luôn nghĩ đến. Nhật Bản cũng là một quốc gia luôn quan tâm đến hai chữ Thịnh và Suy. Còn ở Việt Nam, đổi mới đang đưa đất nước đến với sự cường thịnh, nhưng không phải là không có những tiềm ẩn của sự suy.
Từ nước Nhật...
Nước Nhật trước thời kỳ Minh Trị (Meiji) 1868, là thời kỳ suy. Khi đó, nước Nhật cũng giống như thời kỳ vua Lê chúa Trịnh ở Việt Nam, vua Lê không có thực quyền, chúa Trịnh tuy không phải là vua, nhưng có thực quyền cai trị đất nước. Ở Nhật trước Minh Trị cũng thế, dòng họ lãnh chúa (shogun) Tokugawa đã cai trị nước Nhật hơn 200 năm, vua Nhật chỉ ngồi làm vì. Đến giai đoạn cuối của thời kỳ Tokugawa, nước Nhật hỗn loạn, kinh tế suy yếu, cả nước đói, nội chiến xảy ra. 
Năm 1854, đô đốc hải quân Mỹ Perry đưa hạm đội Mỹ gồm các con tàu đen vào cảng Yokohama, yêu cầu nước Nhật mở cửa ra thế giới, khai thông thị trường trong nước và thế giới. Nhờ áp lực đó của quân đội Mỹ, mà hoàng đế Nhật đã lấy lại được quyền cai trị đất nước từ dòng họ lãnh chúa Shogun Tokugawa.

Năm 1868, hoàng đế Meiji trẻ tuổi lên ngôi vua Nhật, bắt đầu thời kỳ Minh Trị cực thịnh của nước Nhật, chấm dứt thời kỳ suy yếu, loạn lạc dưới thời Tokugawa. Năm 1889, nước Nhật cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên ở châu Á, thiết lập quốc hội gồm 2 viện là thượng viện và hạ viện, làm nền tảng cho sự phát triển toàn diện, cực thịnh của nước Nhật.

Trong 44 năm cầm quyền của hoàng đế Minh Trị (1868-1912), nước Nhật  đã phát triển vượt bậc về kinh tế, và về quân sự đã chiến thắng hai cuộc chiến tranh : với Trung Quốc năm 1894-1895, và với Nga năm 1905.

Sau khi hoàng đế Minh Trị qua đời, nước Nhật quá hoan hỉ với thành tựu kinh tế và với 2 cuộc chiến thắng đó, họ tự vỗ ngực mình là nhất châu Á, nhất thế giới. Chiến thắng trong 2 cuộc chiến tranh đã làm cho phe quân sự và tính chất độc tài, chuyên chế dần thắng thế trong chính quyền. Nhân dân Nhật ngày càng bị mất quyền tự do dân chủ mà Hiến pháp 1889 đem lại. Chính quyền quân sự đưa nước Nhật tham gia phe Đức-Ý trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Kết quả là nước Nhật bị thảm bại, đất nước lại bước vào giai đoạn suy.

Tinh thần tự hào, tự mãn về 2 cuộc chiến thắng xưa thì nay không còn gì cả, chỉ còn lại nỗi nhục nhã thua trận. Nhưng thật may mắn, nước Mỹ thắng trận không đô hộ nước Nhật, không chiếm nước Nhật như trong các cuộc chiến tranh trước vẫn xảy ra, mà nước Mỹ chỉ buộc nước Nhật phải làm một bản hiến pháp thật dân chủ. Hiến pháp đó vừa bảo đảm không cho phe quân sự và nhà nước độc tài tái diễn, vừa bảo đảm sự tự do và dân chủ cho nhân dân Nhật, để nước Nhật có thể phát triển vững chắc, để chứng minh cho châu Á và thế giới chưa văn minh thấy tính chất tiến bộ của một nhà nước tự do và dân chủ là như thế nào.

Nhờ bản hiến pháp 1946 tiến bộ hơn bản hiến pháp 1889, mà nước Nhật lại bước vào giai đoạn cực thịnh sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Đến nay, nước Nhật đã trở thành cường quốc thứ 2 thế giới về kinh tế, sau Mỹ, thu nhập bình quân đầu người trên 30.000 đôla/năm, đứng trên Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch... chỉ sau Mỹ và vài nước khác như Thụy Sĩ, Na Uy, Lucxambua...

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của ông thủ tướng Koizumi, nước Nhật đã vượt qua suy thoái, tốc độ tăng trưởng luôn đạt từ 2 đến 3%/năm. Vị trí thứ hai đó của nước Nhật, trong tương lai gần chưa thấy nước nào có thể vượt qua được. Nhiều người Nhật nói một cách rất thật thà rằng: “Chúng tôi phát triển kinh tế nhanh là nhờ chúng tôi thua trận. Chúng tôi bị nỗi nhục thua trận, nên chỉ biết cắm cổ vào phát triển kinh tế, khiêm tốn học hỏi, không bị bệnh kiêu ngạo của kẻ chiến thắng. Bản hiến pháp dân chủ 1946 cũng bảo đảm cho chúng tôi không bị tình trạng “tự gây ra các khó khăn để khắc phục”.

...Nhìn về Việt Nam

Nhìn lại Việt Nam, ta cũng thấy nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, thịnh suy. Triều nhà Trần, 3 lần chiến thắng quân Nguyên thật lừng lẫy (vào các năm 1227, 1284, 1287). Đến đời nhà Lê, chiến thắng quân Minh lừng lẫy như thế, thời Lê Thánh Tông với bộ luật Hồng Đức tiến bộ như thế, đất nước phát triển cực thịnh như thế.

Nhưng chỉ sau khi Lê Thánh Tông mất 8 năm, đến đời vua Lê Uy Mục (1505-1509), thì nhà Lê bắt đầu suy, để đến năm 1528, đất nước bị nhà Mạc cướp ngôi, rồi nạn Trịnh-Nguyễn phân tranh, vua Lê chỉ làm vì.

Vua Quang Trung đã khôi phục được sức mạnh của dân tộc, thống nhất đất nước, không còn cảnh Đàng Trong-Đàng ngoài, chiến thắng quân Thanh. Nhưng vua Quang Trung chết sớm đã làm đất nước lại suy vi. Nhà Nguyễn thay nhà Tây Sơn, phát triển rực rỡ được thời gian đầu, nhưng sau đó bị người Pháp đô hộ, chỉ vì đất nước quá lạc hậu, không chịu mở cửa, không nghe theo các cải cách của Nguyễn Trường Tộ đề xướng.

Các bước thăng trầm của đất nước ta cho thấy khi các vị vua bắt đầu ham chơi, không chăm lo đến dân, không trọng dụng người tài, chỉ dùng bọn xu nịnh, tham quan, thì đất nước sẽ bước vào giai đoạn suy.

Nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn thịnh, sau khi chiến thắng trong 2 cuộc chiến tranh vĩ đại. Nhưng không phải không tiềm ẩn các mầm mống của sự suy. Lịch sử đã chứng minh thịnh-suy chỉ là tương đối, nếu nhà nước không biết dùng người hiền tài để chăm lo cho dân.

GDP của ta năm 2004 là 40 tỷ đôla, tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn trên 7%. Đó là thành tựu vĩ đại của đổi mới. Nhưng hãy thử nhìn sâu thêm một chút. Năm 2004, Việt kiều gửi về nước xấp xỉ 3 tỷ đôla, chiếm trên 7% GDP. Lao động xuất khẩu của ta gửi về nước cũng xấp xỉ 2 tỷ đô la. Đầu tư nước ngoài rót vào ta trên 2 tỷ nữa. Rồi vốn trợ giúp phát triển ODA của các nước rót vào thêm 2 tỷ nữa. Như vậy tiền từ nước ngoài đưa vào Việt Nam chiếm trên 1/4 tỷ trọng của GDP rồi. Nếu không có các nguồn tiền đó, thử hỏi GDP của ta còn lại bao nhiêu?

Tốc độ tăng trưởng của ta luôn cao trên 7%/năm là do GDP của ta quá thấp, chỉ một chút tiền từ nước ngoài rót vào, hoặc một chút dầu thô khai thác thô xuất khẩu, cũng góp phần đưa tăng trưởng của ta tăng vọt. Nếu GDP của ta sau này đạt mức trên 100 tỷ đôla, thì sẽ thấy rõ hơn tiềm lực thực chất của nền kinh tế nước ta. Không thẳng thắn nhìn vào đó, sẽ không thấy được nguy cơ làm ta suy đang tiềm ẩn. Đó là chưa kể tình trạng tham nhũng và khiếu kiện của nhân dân ngày càng phức tạp và trầm trọng càng cho thấy cái suy tiềm ẩn đó.

Thử nhìn vào Singapore, chỉ có trên 5 triệu dân, diện tích chỉ nhỉnh hơn thành phố Hà Nội một chút, mà GDP năm 2004 là 96 tỷ, gấp hơn hai lần nước ta. Nước Nhật Bản, dân số 123 triệu, gấp rưỡi nước ta, diện tích thì chỉ xấp xỉ nước ta, nhưng GDP của Nhật năm 2004 là trên 5.000 tỷ, gấp trên 120 lần nước ta.  

Lịch sử đã cho thấy một bản hiến pháp tốt, dân chủ, bảo đảm sự thống nhất của quốc gia, không có sự chia rẽ sắc tộc hay tôn giáo, sẽ bảo đảm cho đất nước thịnh, phát triển lành mạnh. Bản hiến pháp năm 1946 của Nhật là một ví dụ. Nước ta cũng đã từng có một bản hiến pháp có chi tiết gần giống hiến pháp Nhật, đó là hiến pháp 1946 do Bác Hồ chỉ đạo soạn thảo, được quốc hội khóa 1 thông qua. Nhưng vì điều kiện chiến tranh, bản hiến pháp đó chưa được công bố để thi hành triệt để, chỉ được thi hành từng phần trong một số điều kiện. 

Minh Tuấn từ Tokyo

Chuyện vui

Đại biểu Nguyễn Lân Dũng (Đắk Lắk) mổ xẻ quy định "trong nội thành không được mở rộng diện tích sử dụng đất". Ông Dũng hài hước cho rằng không quy định thì nội thành Hà Nội cũng không còn đất đâu mà mở rộng nữa.